Nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) là một trong những thách thức lớn nhất đối với hệ thống y tế hiện nay, gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho người bệnh, nhân viên y tế và toàn xã hội. Việc kiểm soát nhiễm khuẩn hiệu quả không chỉ giúp giảm tỷ lệ mắc bệnh, tử vong mà còn góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc y tế và giảm chi phí điều trị. Bài viết này sẽ cung cấp những thông tin toàn diện về kiểm soát nhiễm khuẩn, nguyên nhân phát sinh, hậu quả nghiêm trọng và các phương thức lây truyền phổ biến.
Kiểm soát nhiễm khuẩn là tập hợp các biện pháp được xây dựng, triển khai và giám sát thực hiện nhằm ngăn ngừa sự lan truyền của các tác nhân gây nhiễm khuẩn trong môi trường y tế. Mục tiêu chính của kiểm soát nhiễm khuẩn là bảo vệ người bệnh, nhân viên y tế và cộng đồng khỏi những nguy cơ lây nhiễm không mong muốn trong quá trình điều trị và chăm sóc.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), nhiễm khuẩn bệnh viện được định nghĩa là “những nhiễm khuẩn mắc phải trong thời gian người bệnh điều trị tại bệnh viện và nhiễm khuẩn này không hiện diện cũng như không nằm trong giai đoạn ủ bệnh tại thời điểm nhập viện”. NKBV thường xuất hiện sau 48 giờ kể từ khi người bệnh nhập viện hoặc được chẩn đoán NKBV khi người ta thường dựa vào định nghĩa và tiêu chuẩn chẩn đoán cho từng vị trí NKBV.
Không xuất hiện hoặc không ở trong thời kỳ ủ bệnh khi người bệnh nhập viện
Thường xuất hiện sau 48-72 giờ kể từ khi nhập viện
Có thể xảy ra trong vòng 10 ngày sau khi xuất viện
Liên quan trực tiếp đến các can thiệp y tế, thủ thuật, hoặc điều kiện môi trường bệnh viện
Có thể gây ra bởi vi khuẩn, virus, nấm hoặc ký sinh trùng
Nhiễm khuẩn bệnh viện phát sinh từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Có thể chia thành ba nhóm chính: nguyên nhân từ người bệnh, từ nhân viên y tế và từ môi trường.
Nhiều yếu tố nội sinh và ngoại sinh từ người bệnh có thể dẫn đến nhiễm khuẩn bệnh viện:
Yếu tố nội sinh:
Các bệnh mãn tính làm suy giảm khả năng phòng vệ của cơ thể
Trẻ sơ sinh non tháng và người già
Vi sinh vật có trú trên da, các hốc tự nhiên của cơ thể có thể gây nhiễm trùng có hại
Người bệnh dùng thuốc kháng sinh kéo dài gây ra hiện tượng kháng thuốc
Yếu tố ngoại sinh:
Vệ sinh môi trường, nước, không khí, chất thải không đảm bảo
Quá tải bệnh viện, nằm ghép nhiều người
Dụng cụ y tế không được khử khuẩn đúng cách
Phẫu thuật và các can thiệp thủ thuật xâm lấn làm tăng nguy cơ
Nhân viên y tế có thể trở thành nguồn lây nhiễm hoặc véc-tơ truyền bệnh. Ba nguyên nhân chính làm cho nhân viên y tế có nguy cơ bị lây nhiễm:
Tai nạn nghề nghiệp: Bị phơi nhiễm với các tác nhân gây bệnh qua đường máu do tai nạn trong quá trình chăm sóc người bệnh
Kim tiêm đâm hoặc vật sắc nhọn nhiễm khuẩn gây tổn thương
Máu và dịch từ người bệnh bắn vào niêm mạc mắt, mũi, miệng khi làm thủ thuật
Da tay không lành lặn tiếp xúc với máu và dịch sinh học của người bệnh
Không tuân thủ quy trình kiểm soát nhiễm khuẩn:
Không vệ sinh tay đúng quy định
Không sử dụng đúng cách phương tiện phòng hộ cá nhân
Thực hiện không đúng quy trình vô khuẩn
Trở thành người mang mầm bệnh:
Do tiếp xúc thường xuyên với vi sinh vật gây bệnh
Có thể mang vi khuẩn đa kháng thuốc và lây truyền cho người khác
Môi trường bệnh viện có thể là nguồn chứa và phát tán nhiều tác nhân gây bệnh:
Không khí: Có thể chứa các loại vi khuẩn, virus hoặc nấm. Ví dụ như nấm Aspergillus, vi khuẩn lao, vi rút thủy đậu, sởi.
Nước: Có thể nhiễm các vi khuẩn như Pseudomonas aeruginosa, Legionella pneumophila, có thể gây nhiễm khuẩn đường hô hấp.
Thực phẩm: Có thể nhiễm các tác nhân gây bệnh như Salmonella, Staphylococcus aureus, Clostridium perfringens, Rotavirus.
Bề mặt và dụng cụ y tế: Nếu không được làm sạch và khử khuẩn đúng cách, các bề mặt và dụng cụ có thể trở thành nguồn lây nhiễm chéo.
Điều kiện cơ sở vật chất: Cấu trúc không gian, hệ thống thông khí không đạt chuẩn, quá tải bệnh nhân,… đều có thể làm tăng nguy cơ lây nhiễm chéo.
Nhiễm khuẩn bệnh viện gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến nhiều đối tượng khác nhau.
Tăng tỷ lệ mắc bệnh: Người bệnh có thể mắc thêm bệnh ngoài bệnh chính mà họ đang điều trị, làm nặng thêm tình trạng bệnh.
Tăng tỷ lệ tử vong: Tỷ lệ tử vong do nhiễm khuẩn bệnh viện có thể lên đến 18%, đặc biệt trong trường hợp nhiễm khuẩn huyết.
Kéo dài thời gian điều trị: Thời gian nằm viện trung bình có thể kéo dài thêm từ 7 đến 15 ngày.
Tăng đau đớn và khó chịu: Người bệnh phải chịu đựng thêm những triệu chứng và biến chứng của nhiễm khuẩn.
Tăng nguy cơ tàn tật: Một số nhiễm khuẩn có thể dẫn đến biến chứng lâu dài, thậm chí vĩnh viễn, như nhiễm khuẩn sau mổ có thể dẫn đến phải cắt bỏ dạ con ở phụ nữ sau sinh.
Tăng chi phí điều trị: Chi phí phát sinh do nhiễm khuẩn bệnh viện thường gấp 2-4 lần so với những trường hợp không nhiễm khuẩn. Theo một nghiên cứu tại bệnh viện Chợ Rẫy, NKBV làm kéo dài thời gian nằm viện 15 ngày với chi phí trung bình mỗi ngày là 192,000 VND và có tính chi phí phát sinh do NKBV vào khoảng 2,880,000 VND/người bệnh.
Tăng sử dụng kháng sinh: Dẫn đến tình trạng kháng thuốc ngày càng phổ biến, gây khó khăn trong điều trị.
Giảm hiệu quả chăm sóc: Nhân viên y tế phải dành thêm thời gian và nguồn lực để điều trị nhiễm khuẩn.
Giảm uy tín của cơ sở y tế: Tỷ lệ nhiễm khuẩn cao có thể ảnh hưởng đến danh tiếng và sự tin tưởng của người bệnh.
Tăng áp lực làm việc: Nhân viên y tế phải đối mặt với khối lượng công việc lớn hơn và áp lực tâm lý khi chăm sóc người bệnh nhiễm khuẩn.
Lây lan vi khuẩn kháng thuốc: Vi khuẩn kháng thuốc từ bệnh viện có thể lan rộng ra cộng đồng, tạo ra các vấn đề sức khỏe cộng đồng nghiêm trọng.
Tăng gánh nặng kinh tế: Chi phí xã hội gia tăng do người bệnh phải điều trị kéo dài và mất khả năng lao động.
Giảm niềm tin vào hệ thống y tế: Người dân có thể lo ngại khi phải nhập viện vì sợ bị nhiễm khuẩn bệnh viện.
Có ba con đường lây nhiễm chính trong bệnh viện: lây qua đường tiếp xúc, đường giọt bắn, và đường không khí. Ngoài ra còn có đường lây qua máu và dịch cơ thể.
Đây là đường lây nhiễm quan trọng và phổ biến nhất trong nhiễm khuẩn bệnh viện, được chia làm hai loại:
Lây nhiễm qua tiếp xúc trực tiếp:
Xảy ra do sự tiếp xúc trực tiếp giữa các bề mặt cơ thể và truyền vi sinh vật từ người bệnh này qua người bệnh khác hay từ nhân viên y tế
Ví dụ: khi chăm sóc vết thương không đeo găng, chạm tay trực tiếp vào người bệnh
Lây nhiễm qua tiếp xúc gián tiếp:
Xảy ra do sự tiếp xúc giữa chủ thể nhạy cảm với một vật thể trung gian bị nhiễm
Ví dụ: qua dụng cụ y tế nhiễm khuẩn, bề mặt môi trường, tay nhân viên y tế chưa được vệ sinh
Bệnh lây truyền qua đường này thường do cộng sinh hay nhiễm trùng những vi sinh vật đa kháng, các nhiễm trùng da và đường ruột như MRSA, Herpes Simplex, chốc, ghẻ, chấy rận, đậu mùa, zona, nhiễm cúm kể cả H5N1, SARS. Những trẻ em dưới 6 tuổi thường dễ bị lây truyền virus đường ruột, viêm gan A qua đường này.
Lây truyền qua giọt bắn xảy ra do những bệnh nguyên lây truyền qua những giọt phân tử hô hấp lớn (> 5 μm) tạo ra trong trong quá trình ho, hắt hơi, nói chuyện hoặc trong một số thủ thuật như hút đờm, nội soi.
Đặc điểm:
Sự lây truyền cần sự tiếp xúc gần giữa người bệnh và người nhận
Giọt bắn chỉ di chuyển một khoảng ngắn trong không khí (thường < 1 mét)
Đi vào kết mạc mắt, niêm mạc mũi, miệng của người kế cận
Bệnh lây theo đường này:
Viêm phổi, ho gà, bạch hầu
Cúm (kể cả H5N1, SARS)
Quai bị và viêm màng não
Một số tác nhân gây bệnh qua đường giọt bắn cũng có thể truyền qua đường tiếp xúc trực tiếp hoặc tiếp xúc gián tiếp.
Lây truyền qua không khí xảy ra do các giọt bắn li ti chứa tác nhân gây bệnh, có kích thước nhỏ hơn 5 μm.
Đặc điểm:
Giọt bắn li ti phát sinh ra khi người bệnh ho hay hắt hơi
Phát tán vào trong không khí và lưu chuyển đến một khoảng cách xa
Có thể lưu chuyển trong một thời gian dài tùy thuộc vào các yếu tố môi trường
Có thể bị hít vào hoặc tích tụ lại những vật chủ nhạy cảm trong cùng một căn phòng
Bệnh lây theo đường này:
Lao phổi
Sởi, thủy đậu, đậu mùa
Cúm, quai bị
SARS và H5N1 (khi có làm thủ thuật tạo khí dung)
Việc xử lý không khí và thông khí là cần thiết ngăn ngừa sự truyền bệnh qua đường này.
Phơi nhiễm với các bệnh nguyên đường máu xảy ra do kim hoặc do các vật bén bị vấy máu/dịch tiết người bệnh đâm phải hoặc do mắt, mũi, miệng, da không lành lặn tiếp xúc với máu/dịch tiết của người bệnh.
Đặc điểm:
Chủ yếu qua tổn thương do kim hoặc vật sắc nhọn
Máu, chất tiết, và chất bài tiết từ môi trường và dụng cụ bị nhiễm bẩn
Có thể truyền qua niêm mạc, da không lành lặn vào người bệnh và nhân viên y tế
Yếu tố ảnh hưởng đến nguy cơ nhiễm bệnh:
Tác nhân gây bệnh (phơi nhiễm với HBV có nguy cơ nhiễm bệnh hơn HCV hoặc HIV)
Loại phơi nhiễm (phơi nhiễm với máu có nguy cơ hơn với nước bọt)
Số lượng máu gây phơi nhiễm
Đường phơi nhiễm (phơi nhiễm qua da nguy cơ hơn qua niêm mạc hay da không lành lặn)
Số lượng virus trong máu người bệnh vào thời điểm phơi nhiễm
Bệnh lây theo đường này:
Viêm gan B và C
HIV/AIDS
Ebola và các bệnh nhiễm virus xuất huyết khác
Các chất của cơ thể có thể truyền tác nhân gây bệnh qua đường máu:
Tất cả máu và sản phẩm của máu
Tất cả các chất tiết nhìn thấy máu
Dịch não tủy, dịch màng phổi, dịch màng tim, dịch màng bụng, dịch ối
Tinh dịch, dịch âm đạo
Các dịch khớp, màng bọc, nước tiểu có máu
Nhiễm khuẩn bệnh viện có thể ảnh hưởng đến nhiều bộ phận khác nhau của cơ thể. Dưới đây là các loại nhiễm khuẩn bệnh viện phổ biến nhất:
Chiếm khoảng 15-20% tổng số NKBV
Tỷ lệ mắc cao từ 10-65% ở bệnh nhân nặng và có thể cao gấp 6-12 lần đối với bệnh nhân thở máy
Tỷ lệ tử vong từ 25-60% đối với bệnh nhân nhiễm trùng phổi do thở máy
Tác nhân gây bệnh: vi khuẩn, nấm, virus
Yếu tố nguy cơ: đặt nội khí quản, thở máy, hút đờm không đúng kỹ thuật, chăm sóc không đảm bảo vô khuẩn
Là những nhiễm khuẩn xảy ra tại vị trí phẫu thuật
Chịu ảnh hưởng bởi nhiều tác động trong quá trình từ trước, trong và sau phẫu thuật
Nguyên nhân có thể từ môi trường ngoại sinh (không khí, dụng cụ y tế), từ phẫu thuật viên hoặc nhân viên y tế, hoặc từ nội sinh (hệ vi khuẩn trú trên da)
Yếu tố nguy cơ: chất lượng kỹ thuật phẫu thuật, thời gian và vị trí phẫu thuật, tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân, sử dụng thuốc ức chế miễn dịch
Tác nhân gây bệnh: S.aureus, E.coli, Acinetobacter baumannii, P.aeruginosa và Candida spp
Chiếm tỷ lệ cao, thường đứng hàng thứ hai hoặc ba trong các NKBV
Có tới 80% trường hợp nhiễm khuẩn đường tiết niệu liên quan đến đặt dẫn lưu bàng quang
Tỷ lệ nhiễm khuẩn tiết niệu nặng đặc biệt cao trong một số trường hợp như thay thận, ghép tạng, đái đường và suy thận
Tác nhân gây bệnh chủ yếu là trực khuẩn Gram âm như Escherichia coli, Proteus mirabilis, Klebsiella spp và P.aeruginosa
Yếu tố nguy cơ: đặt thông tiểu không đúng kỹ thuật, chăm sóc không tốt, thời gian đặt thông tiểu kéo dài
Là nhiễm khuẩn tiên phát hoặc thứ phát từ những vị trí khác trên cơ thể
Khoảng một nửa nguyên nhân là do có can thiệp vào mạch máu, đặc biệt là đặt catheter tĩnh mạch trung tâm
Nhiễm trùng huyết do đặt các dụng cụ nội mạch chiếm khoảng 15% trong tổng số NKBV và ảnh hưởng trực tiếp tới khoảng 1% bệnh nhân điều trị nội trú
Tỷ lệ tử vong cao khoảng 18%
Chi phí điều trị cao nhất trong các loại NKBV
Ngoài các loại nhiễm khuẩn phổ biến nêu trên, còn có nhiều loại nhiễm khuẩn khác trong bệnh viện như:
Nhiễm khuẩn da và mô mềm
Nhiễm khuẩn dạ dày – ruột
Viêm xoang
Nhiễm khuẩn mắt và kết mạc
Viêm màng nội mạc tử cung
Việc thực hiện các biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn hiệu quả có thể làm giảm đến 30% các trường hợp NKBV. Dưới đây là các biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn chính:
Phòng ngừa chuẩn là tập hợp các biện pháp phòng ngừa áp dụng cho tất cả những người bệnh trong bệnh viện, không tùy thuộc vào chẩn đoán và tình trạng nhiễm trùng của người bệnh. Các biện pháp bao gồm:
Vệ sinh tay:
Là biện pháp đơn giản và quan trọng nhất trong phòng chống nhiễm khuẩn bệnh viện
Thực hiện vệ sinh tay tại 5 thời điểm: trước khi tiếp xúc với người bệnh, trước khi thực hiện thủ thuật vô khuẩn, sau khi tiếp xúc với dịch cơ thể, sau khi chăm sóc người bệnh, sau khi chạm vào môi trường xung quanh người bệnh
Có thể rửa tay bằng nước và xà phòng hoặc sát khuẩn tay nhanh bằng dung dịch có chứa cồn
Sử dụng phương tiện phòng hộ cá nhân:
Găng tay: khi dự kiến tiếp xúc với máu, dịch cơ thể, niêm mạc, da không lành lặn
Khẩu trang: khi có nguy cơ bắn tóe dịch cơ thể hoặc khi chăm sóc bệnh nhân có bệnh lây qua đường hô hấp
Áo choàng, tạp dề: khi làm thủ thuật có nguy cơ bắn tóe
Kính bảo hộ, tấm che mặt: khi có nguy cơ bắn vào mắt
Xử lý dụng cụ y tế và chất thải:
Dụng cụ y tế tái sử dụng đều phải được xử lý trước khi sử dụng cho người bệnh khác
Phân loại dụng cụ theo mức độ nguy cơ: dụng cụ thiết yếu (critical), bán thiết yếu (semi-critical) và không thiết yếu (non-critical)
Xử lý chất thải y tế đúng quy định
Vệ sinh môi trường:
Làm vệ sinh hàng ngày các bề mặt dễ bị nhiễm vi sinh vật
Khử khuẩn các bề mặt thường xuyên sờ vào như tay nắm cửa, thanh giường
Áp dụng nguyên tắc làm vệ sinh từ vùng có nguy cơ thấp đến vùng có nguy cơ cao
Ngoài phòng ngừa chuẩn, các biện pháp phòng ngừa bổ sung được áp dụng cho những bệnh nhân nghi ngờ có nhiễm những tác nhân gây bệnh quan trọng lây truyền qua tiếp xúc, qua không khí hoặc qua giọt bắn.
Cách ly phòng ngừa qua tiếp xúc (Contact Isolation Precautions):
Cho bệnh nhân nằm phòng riêng hoặc cùng phòng với bệnh nhân nhiễm cùng tác nhân gây bệnh
Mang găng, áo choàng và bao giày khi vào phòng bệnh nhân
Hạn chế tối đa việc vận chuyển bệnh nhân
Sử dụng dụng cụ chăm sóc riêng cho từng bệnh nhân
Cách ly phòng ngừa qua giọt bắn (Droplet Isolation Precautions):
Cho bệnh nhân nằm phòng riêng hoặc cùng phòng với bệnh nhân nhiễm cùng tác nhân gây bệnh
Mang khẩu trang y tế khi làm việc gần bệnh nhân (trong vòng 1 mét)
Hạn chế vận chuyển bệnh nhân, nếu cần thiết phải cho bệnh nhân đeo khẩu trang
Cách ly phòng ngừa qua không khí (Airborne Isolation Precautions):
Xếp bệnh nhân nằm phòng riêng cách ly áp lực âm (không khí đi vào phải từ các phòng khác trong bệnh viện và luồng khí ra khỏi phòng phải đi ra môi trường ngoài bệnh viện)
Giữ cửa đóng
Mang khẩu trang hô hấp đặc biệt (vd khẩu trang N95)
Hạn chế vận chuyển bệnh nhân, chỉ vận chuyển trong những trường hợp hết sức cần thiết
Thiết lập chương trình kiểm soát nhiễm khuẩn:
Thành lập Hội đồng kiểm soát nhiễm khuẩn/Khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn
Xây dựng chính sách và quy định về kiểm soát nhiễm khuẩn
Đào tạo nhân viên về kiểm soát nhiễm khuẩn
Giám sát nhiễm khuẩn bệnh viện:
Thu thập số liệu về tỷ lệ mắc NKBV, tác nhân gây bệnh, kháng thuốc
Phân tích dữ liệu và đưa ra kế hoạch can thiệp
Đánh giá hiệu quả các biện pháp can thiệp
Kiểm soát sử dụng kháng sinh:
Xây dựng quy định, chính sách sử dụng kháng sinh hợp lý
Giám sát việc sử dụng kháng sinh và tình trạng kháng thuốc
Đào tạo nhân viên về sử dụng kháng sinh
Bảo đảm các điều kiện cơ sở vật chất:
Có đơn vị khử khuẩn – tiệt khuẩn tập trung
Có nhà giặt thiết kế một chiều, trang bị đầy đủ
Có cơ sở hạ tầng đảm bảo xử lý an toàn chất thải
Trang bị đầy đủ phương tiện phòng hộ cá nhân, phương tiện vệ sinh tay
Kiểm soát nhiễm khuẩn là một thách thức lớn đối với hệ thống y tế, đòi hỏi sự quan tâm, đầu tư và cam kết của tất cả các bên liên quan. Việc hiểu rõ về nguyên nhân, hậu quả và các phương thức lây truyền nhiễm khuẩn là bước đầu tiên trong nỗ lực kiểm soát nhiễm khuẩn hiệu quả.
Các biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn cần được thực hiện đồng bộ, từ việc tuân thủ phòng ngừa chuẩn, áp dụng phòng ngừa bổ sung khi cần thiết, đến việc xây dựng và duy trì một chương trình kiểm soát nhiễm khuẩn toàn diện. Đặc biệt, vệ sinh tay đúng quy định và sử dụng phương tiện phòng hộ cá nhân phù hợp là những biện pháp đơn giản nhưng hiệu quả nhất trong phòng ngừa nhiễm khuẩn.
Với mục tiêu “An toàn cho người bệnh, an toàn cho nhân viên y tế”, nhiều bệnh viện trên thế giới đã nêu quyết tâm của mình như “Tiến đến không còn NKBV” và xu thế này đang được rất nhiều cơ sở y tế trên thế giới ủng hộ. Tại Việt Nam, việc nâng cao nhận thức và tăng cường đào tạo về kiểm soát nhiễm khuẩn cho nhân viên y tế, cùng với việc đầu tư cải thiện cơ sở vật chất và trang thiết bị, sẽ góp phần quan trọng trong việc giảm thiểu tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện, nâng cao chất lượng chăm sóc y tế và bảo vệ sức khỏe cộng đồng.